Lời Ban biên tập: Nghị Quyết 57-NQ/TW đã tháo gỡ những khó khăn nào cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ?
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong các giai đoạn phát triển của mình cần những điều kiện cụ thể gì về chính sách, và những điều kiện đó được Nghị quyết 57 tạo lập như thế nào?
Các cấp quản lý cần cụ thể hóa nội dung Nghị quyết 57 thành các biện pháp cụ thể nào nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khoa học – công nghệ? Việc này đã được làm đến đâu?
Các doanh nghiệp khoa học – công nghệ đã nhận được sự hỗ trợ cụ thể nào, và vẫn còn những vấn đề gì chưa được giải quyết theo tinh thần Nghị quyết 57?
Tạp chí Quản trị – An ninh – Công nghệ mời các nhà khoa học, các nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp khoa học – công nghệ và tất cả các bạn quan tâm thảo luận về chủ đề này. Các bài viết xin gửi về emal: tuantd@hsb.edu.vn
Bài 1: NGHỊ QUYẾT 57 ĐÃ THAY ĐỔI NHỮNG GÌ CHO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ DOANH NGHIỆP KHOA HỌC CÔNG NGHỆ?
Hoàng Nguyễn Quốc Thành
Trường Quản Trị và Kinh Doanh – ĐHQGHN
Tóm tắt
Khoa học-công nghệ (KH&CN) đã được xác định là “chìa khóa” giúp Việt Nam tăng trưởng bền vững và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Bài viết này hướng đến việc phân tích và so sánh chính sách KH&CN từ thời kỳ Đổi mới (1986) đến nay, đặc biệt là Nghị quyết số 57‑NQ/TW của Bộ Chính trị. Các phân tích chỉ ra rằng trong khi các nghị quyết trước đây chủ yếu xem KH&CN như một trong những trụ cột và tập trung vào xây dựng khung pháp lý nền tảng, thì Nghị quyết 57 đã đánh dấu một bước ngoặt thể chế: đưa KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số lên thành trụ cột chiến lược của phát triển quốc gia. Nghị quyết đề xuất hàng loạt cải cách thể chế nhằm “cởi trói” cho doanh nghiệp KH&CN — bao gồm cơ chế thí điểm công nghệ, miễn trừ trách nhiệm pháp lý cho thử nghiệm thất bại, nâng mức chi tối thiểu ngân sách dành cho KH&CN lên 3%, cho phép thương mại hóa tài sản trí tuệ và ưu tiên mua sắm công các sản phẩm công nghệ trong nước. Đồng thời, nghị quyết khuyến khích nhà khoa học lập doanh nghiệp, mở rộng quỹ đầu tư mạo hiểm và phát triển cơ chế tài chính dựa trên tài sản vô hình. Nhìn tổng thể, Nghị quyết 57 vừa kế thừa các giá trị trước đó, vừa vượt lên khuôn khổ cũ — từ mô hình “quản lý – bao cấp” sang “khuyến khích – trao quyền – chấp nhận rủi ro” trong chính sách KH&CN. Tuy nhiên, bài viết cũng phân tích các thách thức có thể đối mặt trong quá trình triển khai Nghị quyết 57.
- Doanh Nghiệp KHCN Và Điểm Nghẽn Thể Chế
1.1 Doanh nghiệp khoa học-công nghệ trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam
Trước đây, nếu doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là động lực phát triển của kinh tế Việt Nam, thì nay đã có sự ghi nhận và tham gia trực tiếp của doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp KHCN. Trong nghị quyết 57 và 68, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KH&CN) được xác định là trung tâm, là chủ thể và động lực chính trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Với việc giải Nobel năm 2025 đã chứng minh được phát triển kinh tế qua đổi mới sáng tạo (ĐMST), doanh nghiệp KH&CN càng giữ vai trò đầu tàu chuyển giao và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình phát triển bền vững quốc gia. Nghị quyết 57 nhấn mạnh “người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; … Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển KH, CN, đổi mới sáng tạo” . Điều này cho thấy sự chuyển biến tư duy về thị trường, đặc biệt doanh nghiệp KH&CN được coi là lực lượng nòng cốt để đưa khoa học-công nghệ vào cuộc sống và kinh tế. Tính đến 2023, Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ. Chẳng hạn, có khoảng 50.000 doanh nghiệp công nghệ số, nhưng phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ (Tuoi Tre, 2024). Tuy nhiên, số doanh nghiệp được chứng nhận là doanh nghiệp KH&CN (theo Luật KH&CN) còn rất hạn chế so với mục tiêu. Chiến lược phát triển KH&CN 2011–2020 đặt mục tiêu 5.000 doanh nghiệp KH&CN vào năm 2020, nhưng thực tế đến cuối 2022 chỉ có 712 doanh nghiệp KH&CN được đăng ký, đạt ~14% mục tiêu (Báo Kinh tế Đô thị 2023). Thậm chí, khảo sát cho thấy có trên 3.000 doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng không mặn mà đăng ký do các ưu đãi chưa đủ hấp dẫn hoặc thủ tục rườm rà. Điều này phản ánh điểm nghẽn về mặt thể chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp KH&CN chưa hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đổi mới sáng tạo chưa được thừa nhận và hỗ trợ đúng mức. Trước Nghị quyết 57, doanh nghiệp đối mặt với các rào cản về thể chế, tài chính và thị trường đã kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp KH&CN. Nguồn vốn cho hoạt động R&D còn hạn hẹp và không thể phối hợp với nhà nước để giảm thiểu rủi ro; Cơ chế tài chính chưa cho phép dùng tài sản trí tuệ (i.e. tài sản vô hình) làm thế chấp khiến doanh nghiệp khó tiếp cận vốn. Thị trường KH&CN hình thành nhưng phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với sản xuất kinh doanh và hệ thống thực thi mô hình vườn ươm chưa phát triển theo đúng yêu cầu. Nhiều kết quả nghiên cứu khó thương mại hóa do thiếu cơ chế mua sắm công ưu tiên sản phẩm KH&CN nội địa. Đặc biệt, doanh nghiệp chưa thực sự có “nhu cầu tự thân” trong việc ứng dụng KH&CN, một phần do nhận thức lãnh đạo và môi trường thể chế chưa tạo động lực. Những hạn chế này đặt ra yêu cầu cấp bách phải “cởi trói, phá rào” về chính sách để doanh nghiệp KH&CN cất cánh (Báo Kinh tế Đô thị 2023).
- Nghị Quyết 57 – So Sánh Với Các Nghị Quyết Trước Đây
Nhìn chung, nghị quyết 57 đặt ra nhiều thay đổi trong cách tư duy về KHCN. Nghị quyết không chỉ nêu mục tiêu đến năm 2030, 2045, mà quan trọng hơn là đề ra loạt giải pháp cụ thể để tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp KH&CN (xem Bảng 1).
2.1 Thay đổi tư duy quản lý
Chấp nhận rủi ro, thí điểm cơ chế mới là điểm thay đổi đầu tiên. Thay vì quản lý chặt theo quy định sẵn có, nghị quyết cho phép “vận dụng sáng tạo, thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra”. Nhà nước chấp nhận cả rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, nghĩa là nhà nước thừa nhận rằng thất bại là một phần tất yếu của quá trình sáng tạo. Cụ thể, nghị quyết yêu cầu xây dựng các cơ chế thí điểm có kiểm soát (sandbox) để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ, mô hình kinh doanh mới dưới sự giám sát của Nhà nước. Lần đầu tiên, Việt Nam áp dụng chính sách miễn trừ trách nhiệm cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi thử nghiệm cái mới mà thất bại do nguyên nhân khách quan. Đây là bước đột phá lớn: doanh nghiệp sẽ bớt nỗi lo bị xử phạt hay chịu trách nhiệm pháp lý khi triển khai ý tưởng mới chưa có tiền lệ. Với khung pháp lý linh hoạt hơn, các công ty công nghệ có thể mạnh dạn sáng tạo, tạo ra sản phẩm, dịch vụ đột phá mà không bị trói buộc cứng nhắc bởi quy định cũ.
- Tăng cường nguồn lực tài chính cho đổi mới sáng tạo
NQ57 cam kết bảo đảm nguồn đầu tư vượt trội cho KH&CN và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết quy định “Ngân sách hằng năm sẽ chi tối thiểu 3% cho KH&CN, ĐMST và chuyển đổi số (CĐS)” Mức 3% NSNN này cao hơn hẳn so với thực chi trước đây (chỉ ~1.5-2% NSNN, tương đương <0.5% GDP). Bên cạnh đó, nghị quyết chú trọng huy động mọi nguồn lực xã hội: thúc đẩy hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, khuyến khích đối tác công-tư (PPP) trong nghiên cứu và phát triển công nghệ chiến lược Việc cho phép thành lập Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp chiến lược và ưu tiên bố trí ít nhất 15% ngân sách KH&CN cho công nghệ lõi sẽ tạo nguồn vốn tập trung cho các lĩnh vực tiên tiến (AI, bán dẫn, sinh học, năng lượng mới…). Những chính sách này tháo gỡ điểm nghẽn về vốn – vấn đề mà doanh nghiệp KH&CN trước nay rất khó khăn . Có thể thấy, NQ57 không chỉ dựa vào ngân sách nhà nước mà còn mở đường cho dòng vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài vào R&D thông qua cơ chế ưu đãi và môi trường thông thoáng hơn.
- Ưu đãi thuế, tín dụng và tài sản trí tuệ
Dù NQ57 không nêu chi tiết về thuế, nhưng tinh thần nghị quyết là xây dựng chính sách ưu đãi vượt trội để kích thích doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN, chuyển đổi số . Ngay sau NQ57, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 193/2025/QH15 (có hiệu lực 19/02/2025) thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt để tạo đột phá phát triển KH&CN, ĐMST. Nghị quyết 193 cho phép sử dụng ngân sách nhà nước để đồng tài trợ cho dự án R&D của doanh nghiệp, hỗ trợ lãi suất vay vốn và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp lên đến 50% trong 5 năm cho doanh nghiệp công nghệ cao (theo báo Lâm Đồng).Đặc biệt, các đề xuất mới đang được xem xét như cho phép doanh nghiệp dùng bằng sáng chế, nhãn hiệu làm tài sản thế chấp vay vốn, và thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho tài sản trí tuệ. Đây đều là những biện pháp tháo gỡ vướng mắc lâu nay (do tài sản vô hình khó được ngân hàng chấp nhận). Nếu được triển khai, doanh nghiệp KH&CN sẽ dễ tiếp cận vốn tín dụng hơn, giảm phụ thuộc vào tài sản hữu hình.
- Liên kết viện-trường-doanh nghiệp và thương mại hóa kết quả nghiên cứu
Nghị quyết 57 xóa bỏ rào cản hợp tác giữa các tổ chức KH&CN công lập với doanh nghiệp. Cụ thể, giao quyền tự chủ tối đa cho các viện, trường về tài chính, nhân sự, liên doanh liên kết . Các đơn vị nghiên cứu được dùng ngân sách thuê chuyên gia, được sử dụng tài sản trí tuệ do mình tạo ra để góp vốn, hợp tác với doanh nghiệp. Quy định này vô cùng quan trọng để thúc đẩy chuyển giao công nghệ: trước đây tài sản trí tuệ thuộc viện/trường công lập muốn đem ra góp vốn rất phức tạp, nay sẽ thông thoáng hơn. NQ57 còn khuyến khích nhà khoa học thành lập hoặc điều hành doanh nghiệp khởi nguồn từ kết quả nghiên cứu của mình . Điều này khích lệ mô hình chuyển đổi doanh nghiệp từ các trường đại học, viện nghiên cứu – vốn là nguồn gốc của nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp thành côngcông nghệ trên thế giới. Song song đó, nghị quyết yêu cầu hoàn thiện thị trường KH&CN, với việc Nhà nước sẽ ưu tiên mua sắm các sản phẩm do doanh nghiệp trong nước nghiên cứu sản xuất, tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư đổi mới. Việc hình thành trung tâm thẩm định giá trị tài sản trí tuệ quốc gia cũng đang được kiến nghị, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp định giá sáng chế, công nghệ một cách minh bạch để dễ dàng giao dịch, chuyển giao. Nhìn chung, NQ57 sẽ khiến con đường ĐMST từ phòng thí nghiệm ra thị trường được rút ngắn đáng kể, góp phần vào phát triển kinh tế bền vững.
- Tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến
Khác với cách tiếp cận trước đây đôi khi e dè việc “đi tắt” công nghệ, NQ57 mạnh dạn cho phép mua và học hỏi công nghệ nước ngoài. Nghị quyết đề ra cơ chế đặc biệt để “nghiên cứu, tiếp cận, mua các bí mật công nghệ, học hỏi, sao chép các công nghệ tiên tiến của nước ngoài”. Đây là bước tháo gỡ tâm lý tự ti và thủ tục rườm rà trong nhập khẩu công nghệ. Thay vì mất nhiều năm tự nghiên cứu trong nước, doanh nghiệp có thể chủ động mua lại sáng chế, chuyển giao công nghệ hiện đại từ các nước phát triển một cách thuận lợi hơn. Nhà nước sẽ hỗ trợ về thủ tục, tài chính (qua quỹ hoặc ưu đãi) cho các thương vụ chuyển giao công nghệ trọng điểm. Chính sách này kỳ vọng giúp doanh nghiệp Việt nhanh chóng làm chủ công nghệ lõi, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến – nhất là trong các lĩnh vực như chip bán dẫn, robot, trí tuệ nhân tạo. Song song, Việt Nam cũng đặt mục tiêu thu hút các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trung tâm R&D, sản xuất tại Việt Nam. Đây là nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng từ khu vực FDI sang khu vực trong nước.
2.6 Phát triển nhân lực KH&CN và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
Một điểm nhấn khác của NQ57 là chú trọng phát triển nhân tài và xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội. Nghị quyết yêu cầu tăng mạnh đầu tư cho giáo dục đào tạo, đặc biệt trong STEM, bảo đảm cung cấp nhân lực chất lượng cao cho công cuộc chuyển đổi số. Có chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút chuyên gia giỏi, nhân tài KH&CN trong và ngoài nước về làm việc. Đối với thế hệ trẻ, nghị quyết khuyến khích phong trào học tập, sáng tạo: phổ cập kiến thức số, triển khai sâu rộng phong trào “khởi nghiệp, sáng tạo, cải tiến nâng cao hiệu quả” trong thanh niên, sinh viên. Mục tiêu đến 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ĐNÁ về năng lực cạnh tranh số, và tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% tổng số doanh nghiệp.Như vậy, thay vì chỉ vài trăm doanh nghiệp KH&CN được chứng nhận, tương lai sẽ có hàng chục nghìn doanh nghiệp trên toàn nền kinh tế tham gia đổi mới sáng tạo. NQ57 tạo ra “khí thế mới trong xã hội” về KH&CN, huy động cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân chung tay cho kỷ nguyên sáng tạo. Có thể nói, đây chính là nền tảng bền vững nhất mà nghị quyết mang lại – một thế hệ nhân lực và doanh nghiệp mới, sẵn sàng đưa Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên số.
Bảng 1: So sánh NQ 57 với các nghị quyết trước đây
| Khía cạnh | Các nghị quyết trước 2024 (NQ37, NQ26, NQ01, NQ01/BCHTW, NQ20-2012, NQ52-2019 về Cách mạng công nghệ 4.0) | Nghị quyết 57-NQ/TW |
| Quan điểm chỉ đạo | Xác định KH&CN là động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá; dần coi “KH&CN là quốc sách hàng đầu” (NQ20). Doanh nghiệp được khuyến khích đổi mới nhưng chưa là trung tâm; nhiều nơi nhận thức chưa coi KH&CN là nhiệm vụ trọng tâm . | Khẳng định KH&CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu cho phát triển . Đặc biệt nhấn mạnh doanh nghiệp là chủ thể trung tâm, động lực chính của hệ sinh thái KH,CN, ĐMST |
| Đầu tư tài chính cho KH&CN | Khuyến khích tăng chi cho KH&CN, đặt mục tiêu 2% GDP cho R&D (NQ20 đặt mục tiêu ~2% GDP vào 2020). Thực tế ngân sách chi KH&CN nhiều năm <1% GDP, hiệu quả thấp. | Đề ra cam kết ngân sách mạnh mẽ: tối thiểu 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho KH&CN, ĐMST, CĐS . Cơ cấu lại chi sự nghiệp KH&CN tập trung trọng điểm, tránh dàn trải; dành ít nhất 15% ngân sách KH&CN cho nghiên cứu công nghệ chiến lược (AI, bán dẫn, sinh học…) |
| Cơ chế quản lý và pháp lý | Các nghị quyết trước đề cập ngắn gọn việc gắn kết nghiên cứu với sản xuất, nhưng cơ chế cụ thể chưa rõ. Nhiều bất cập về quản lý tài sản công khiến nhà khoa học khó thương mại hóa sản phẩm. Sau 2012, Luật cho phép thành lập doanh nghiệp KH&CN nhưng ít nhà khoa học tham gia do rào cản hành chính
|
Trao quyền tự chủ mạnh hơn cho tổ chức KH&CN công lập về tài chính, nhân sự . Cho phép sử dụng ngân sách thuê chuyên gia, sử dụng tài sản trí tuệ để hợp tác với doanh nghiệp . Đặc biệt, khuyến khích các viện, trường, nhà khoa học thành lập và điều hành doanh nghiệp dựa trên kết quả nghiên cứu
|
| Thương mại hoá KH&CN | NQ20 (2012) đã nhắc đến việc hình thành thị trường KH&CN, nhưng thực tế đến nay thị trường này vẫn yếu (mua bán công nghệ, giao dịch tài sản trí tuệ hạn chế) . Nhà nước chưa có chính sách mua sắm công ưu tiên sản phẩm KH&CN nội địa, khiến doanh nghiệp khó tiêu thụ sản phẩm mới. | NQ57 yêu cầu có cơ chế mua sắm công ưu đãi đối với sản phẩm, hàng hóa là kết quả nghiên cứu do doanh nghiệp trong nước tạo ra. Đồng thời, nhấn mạnh xây dựng cơ chế định giá, giao dịch tài sản trí tuệ, phát triển thị trường dữ liệu và sàn giao dịch dữ liệu – coi dữ liệu và tri thức là tài sản có thể mua bán
|
| Hỗ trợ doanh nghiệp và khởi nghiệp | Trước đây có chính sách ưu đãi doanh nghiệp KH&CN (thuế TNDN miễn 4 năm, giảm 50% 9 năm…) và quỹ phát triển KH&CN ở doanh nghiệp. Song thủ tục công nhận phức tạp, nhiều DN không mặn mà do ưu đãi trùng lặp hoặc nguồn vốn vẫn là điểm nghẽn | Có cơ chế thí điểm cho phép doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ, mô hình mới dưới sự giám sát của Nhà nước. Đặc biệt, miễn trừ trách nhiệm nếu thử nghiệm gây thiệt hại do nguyên nhân khách quan
|
| Công nghệ quốc tế | Trước đây nhấn mạnh “tăng cường hợp tác quốc tế về KH&CN”, tiếp thu công nghệ tiên tiến | NQ57 đề ra cơ chế đặc biệt để nghiên cứu, tiếp cận, mua các bí mật công nghệ, học hỏi công nghệ tiên tiến của nước ngoài |
| Nhân lực khoa học-công nghệ | Các nghị quyết đều đề cập đào tạo, đãi ngộ nhân tài KH&CN. NQ20 thừa nhận chính sách trọng dụng nhân tài còn nhiều bất cập | NQ57 coi phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao là một trụ cột riêng . Đề ra chính sách đặc biệt đào tạo và thu hút chuyên gia, nhân tài KH&CN, kể cả nguồn lực quốc tế, về phục vụ phát triển đất nước |
- Các Thách Thức Của NQ57 Khi Đưa Vào Triển Khai
3.1 Phân vùng kinh tế trong tiếp cận NQ57
Mặc dù Nghị quyết 57 xác định rõ rằng khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chiến lược cho phát triển đất nước, văn bản chưa đi sâu vào cách thức phân vùng triển khai theo đặc thù kinh tế – xã hội của từng vùng. Việt Nam thường phân loại các vùng kinh tế thành ít nhất ba loại: vùng kinh tế trọng điểm (như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh), vùng kinh tế động lực và vùng kinh tế (đặc biệt) khó khăn (miền núi, biên giới, hải đảo). Việc triển khai Nghị quyết ở từng vùng này – với mức độ phát triển khác nhau, nguồn lực khác nhau và hạ tầng khác nhau – đòi hỏi lộ trình, cơ chế ưu đãi và hỗ trợ riêng biệt để đảm bảo hiệu quả lan tỏa đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, Nghị quyết chưa đưa ra các chỉ dẫn cụ thể cho từng loại vùng kinh tế, như ưu đãi đặc thù cho vùng khó khăn, khung thời gian thích ứng cho vùng động lực hay cơ chế tài chính bổ sung cho vùng hạ tầng yếu. Hệ quả là nếu không có sự phân hóa rõ ràng và hành động từng vùng, có thể NQ57 được ứng dụng mạnh mẽ tại những vùng đã có điều kiện tốt, trong khi các khu vực còn yếu sẽ bị tụt lại – gây nên sự chênh lệch vùng trong phát triển KH&CN và đổi mới sáng tạo
3.2 Thiếu tính đồng bộ giữa NQ57 và thông tư hướng dẫn cho cơ quản lý nhà nước và doanh nghiệp
Một văn kiện chiến lược như Nghị quyết 57 yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, viện/trường nghiên cứu và hiệp hội doanh nghiệp. Nghị quyết ghi rõ: “Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt.” Tuy nhiên, trải qua các tháng đầu triển khai, vẫn tồn tại khoảng trống giữa chính sách định hướng và văn bản hướng dẫn thực thi – như nghị định, thông tư chuyên ngành hoặc hướng dẫn thủ tục cho doanh nghiệp KH&CN. Như vậy, thiếu sự đồng bộ này dẫn đến rủi ro là chính sách bị trì hoãn, doanh nghiệp KH&CN chần chừ tham gia do chưa rõ cách tiếp cận quyền lợi, và quản lý nhà nước khó kiểm soát tiến độ do thiếu tiêu chí hướng dẫn cụ thể. Để khắc phục, cần sớm ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn liên bộ – liên vùng trong Quý 1 và Quý 2 của năm 2026, đồng thời xây dựng cơ chế giám sát triển khai, đánh giá thường xuyên, và minh bạch. Các cơ chế giám sát đặc biệt quan trọng để sớm phát hiện các trường hợp không phát triển theo tinh thần nghị quyết, đặc biệt về tạo cơ chế và hành lang pháp lý để doanh nghiệp KHCN được phát triển mạnh mẽ. Hơn nữa, cần áp dụng việc tích hợp khoa học vào đánh giá chính sách với số liệu minh bạch, được người dân và doanh nghiệp giám sát để tránh các báo cáo mang tính chủ quan và quan liêu, ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển KHCN và kinh tế.
Trích dẫn
Báo Kinh tế Đô Thị (2023, April 7). Số lượng doanh nghiệp khoa học công nghệ còn ít, Bộ KH&CN nói gì? Báo Kinh Tế Đô Thị. https://kinhtedothi.vn/so-luong-doanh-nghiep-khoa-hoc-cong-nghe-con-it-bo-khcn-noi-gi
Tạp chí VnEconomy (2025, May 28). Nghị quyết 57 – “bà đỡ” cho doanh nghiệp khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo – VnEconomy. VnEconomy. https://vneconomy.vn/nghi-quyet-57-ba-do-cho-doanh-nghiep-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao.htm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2012, 01 Nov). Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Retrieved from https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/nghi-quyet-so-20-nqtw-ngay-01112012-hoi-nghi-lan-thu-6-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-phat-trien-khoa-hoc-va-576 (turn0search2)
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2024, 22 Dec). Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Retrieved from https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-ve-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-119241224180048642.htm (turn0search0)
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2024, 11 Jan). Kết luận số 69-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW. Retrieved from https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-ket-luan-cua-bo-chinh-tri-ve-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-119240112184048764.htm
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai số 02-NQ/HNTW BCHTW Đảng (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 24/12/1996 | Tư liệu văn kiện Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-viii/nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-hai-so-02-nqhntw-bchtw-dang-khoa-viii-ve-dinh-huong-chien-luoc-phat-trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-668#:~:text=C%C3%B3%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20nh%E1%BB%AFng%20th%C3%A0nh%20t%E1%BB%B1u,c%C3%B4ng%20ngh%E1%BB%87%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20m%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng
Trang thông tin điện tử xã Tuy An Đông NGHỊ QUYẾT 57-NQ/TW: KHỞI ĐỘNG KỶ NGUYÊN MỚI – TĂNG TỐC VƯƠN LÊN CỦA VIỆT NAM. tuyandong.daklak.gov.vn. https://tuyandong.daklak.gov.vn/tin-tuc/cchc/nghi-quyet-57-nq-tw-khoi-dong-ky-nguyen-moi-tang-toc-vuon-len-cua-viet-nam.html#:~:text=Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%2057,l%E1%BB%B1c%20m%E1%BB%9Bi%20cho%20%C4%91%E1%BA%A5t
Hương Giang. (2025, July 23). [Video] Nghị quyết 57: “Chìa khóa vàng” đưa Việt Nam vào Kỷ nguyên mới. Báo Nhân Dân Điện Tử. https://nhandan.vn/video-nghi-quyet-57-chia-khoa-vang-dua-viet-nam-vao-ky-nguyen-moi-post895854.html#:~:text=,cho